Cách trồng và chăm sóc hoa lan
Sunny Garden - 28 tháng 5 20201. Phân bón và tưới nước cho cây phong lan
Nhiều người lầm tưởng rằng cây Phong Lan chỉ cần có khí trời và nước là có thể sống và phát triển được. Thật ra, cây Phong lan cũng như tất cả các loại cây trồng khác đều phải có đầy đủ chất dinh dưỡng và kích thích tố. Nhìn chung, một cây Phong lan (cả lan rừng lẫn lan cấy mô) đều cần rất nhiều nguyên tố, trong đó nổi bật các nguyên tố da lượng như N (Đạm), P (Lân) và K (Kali) và các nguyên tô vi lượng như Fe (Sắt), Cu (Đồng), Ma (Ma ngan), Bo (Bo), Mo (Molibden)...
Ngoài ra Phong lan cũng cần phải có đầy đủ các nguyên tố bổ sung như Ca (Calci), Mg (ma giê), S (sunphua)... Mỗi một loại nguyên tố đều có giá trị dinh dưỡng riêng của nó, không thể thiếu được.
Ví dụ, đạm cần cho việc đảm bảo Protein và Nuleoprotein trong tế bào, giúp cho sự tăng trưởng của cây (nhất là ở lá) và sự hô hấp. Cây Phong lan thiếu đạm sẽ cằn cỗi, yếu, không xanh tươi và lá nhỏ, hơi vàng. Còn lân rất cần cho sự quang hợp, giúp cho việc tăng cường sự chuyển hóa năng lượng trong cơ thể, làm cây chóng ra rễ, nẩy mầm khỏe và sớm có hoa.
Thiếu lân, cây Phong lan sẽ kém tăng trương, cây nhỏ, sức đề kháng kém, lá xanh pha tím, rễ ít, chậm ra hoa. Còn Kali đảm bảo sự vận chuyển nước và các chát dinh dưỡng trong
cây, luân lưu sự điều hòa như quang hợp, phân hóa tế bào, làm cho cây dự trữ được chất dinh dtfơng. Nếu thiếu Ka li, cây ngừng phát triển, khô dần, lá úa vàng dễ rụng.
Hiện nay, do việc nuôi trồng Phong lan đã đi vào sản xuất công nghiệp, do đó rất nhiều cơ sở sản xuất đã pha sẵn các dung dịch dinh dưỡng để bón cho cây, trong đó chủ đạo gồm 3 nguyên tố chủ yếu N, P, K với các nguyên tố vi lượng bổ sung thích hợp. Phong lan sau khi được đưa ra khỏi chai cấy mô sẽ phát triển quả 4 giai đoạn với 4 chế độ dinh dưỡng khác nhau:
- Phong lan dưới 3 tháng tuổi, phân bón chủ yếu là đạm, còn lân và kali cũng dùng, nhưng rất loãng. Cụ thể Phong lan 2 tháng dùng 3 g đạm pha trong 10 lít nước và tưới mỗi tuần 1 lần... Phong lan 3 tháng, dùng 5 g đạm trong 10 lít nước và tưới 10 ngày 1 lần (có thể pha loãng bằng một nửa và tưới sát ngày hơn).
- Phong lan từ 4 tháng đến 10 tháng tuổi, dùng cả 3 loại nguyên tố, với công thức N = 3, P = 1, K : 1. cụ thể là: 10g N + 3g P + 3g K pha trong 10 lít nước và cứ 15 ngày tưới 1 lần (có thể pha loãng một nửa và tưới 1 tuần 1 lần).
- Phong lan từ 10 tháng đến 16 tháng tuổi, dùng cả 3 nguyên tố như nhau (N = 2, P = 2, K = 2) cụ thể là : 6g N + 6g P + 6g K, pha trong 10 lít nước, 15 ngày tưới 1 lần (có thể pha loãng một nửa và một tuần tưới một lần), kết hợp pha thêm nguyên tố vi lượng.
- Phong lan từ 16 tháng tuổi trở lên, cho đến khi ra hoa, dùng công thức N = 1, P = 2, K = 3. Cụ thể là 5g N, 10g P, 15g K pha chung trong 10 lít nước, nửa tháng tưới 1 lần (có thể pha loãng một nửa và tưới tuần 1 lần) dùng nhiều nguyên tố vi lượng hơn.
Về nguồn phân vô cơ này, có thể dùng các loại cho phù hợp với Phong lan như N nên dùng (NH4)2SO4 21% N (Sulphat amnonium, hơi chua, Phong lan dễ tiếp thu. Về P nên dùng [CaH4(PO4)2CaSO4 (Super lân) 20% P2O5 dễ tan nên Phong lan hấp thu được ngay. Về K nên dùng SO4K2 (sulphat Kali). Còn các nguyên tố khác như Ca thì dùng Ca(NO3)2 (không nên dùng vôi trắng); Mg thì dùng MgSO4 hay MgHPO4; Fe nên dùng sắt tam FeCl3; còn Cu nên dùng đồng nhị CuCl2; Zn có thể dùng cả ZnCl2 Và ZnSO4; Cũng như Ma dùng cả MnCl2 và MnSO4. Ngoài ra, có thể pha thêm một ít các vitamin (loại C và B) các chất kích thích tố như 2,4 D, Giberalin, Citokinin...
Khi Phong lan đã trưởng thành (nhất là các loài Phong lan rừng giai đoạn sinh trưởng khá dài) có thể dùng các loại phân hữu cơ. Thông dụng có thể dùng nước tiểu (pha thật loãng 1/20 và mỗi tuần tưới 2 lần), phân các loài động vật (phân bò, lợn...) ngâm trong nước cho thật mục, lọc lấy nước rồi tưới cho cây (1 phần phân hòa với 30 phần nước). phân chuồng rất giàu các chất N, P, K cùng với các nguyên tố vi lượng cần thiết, nó rất thích hợp cho các loài Phong lan trồng ở luống (trong đó phân bò và phân lợn, được xem là thích hợp nhất). Phân bò tươi có tác dụng ủ mát và kích thích rễ Phong lan phát triển, nếu để hoại sẽ mất đi nhiều chất cần cho cây.
Còn phân lợn có thể bón cho Phong lan trồng ở chậu lớn vừa phân) vừa nước tiểu lợn, nó cũng có tác dụng rất lớn đến sự tăng trưởng của rễ Phong lan, tuy nhiên chỉ nên dùng mỗi tháng một lần, và đối với Phong lan mới trồng nên pha nồng độ thật loàng (1 phần phân với 100 phần nước).
Ngoài các loài phân chuồng, ngày nay còn dùng rộng rãi các loại phân chim, phân dơi, phân tằm. Chúng đều có lượng N, P, K khá cao, các yếu tố) vi lượng đầy đủ và đặc biệt có cấu trúc tơi, mịn, rất dễ trong việc bón gốc Phong lan. Mỗi chậu Phong lan lớn có thể bón 20 - 30 g mỗi lần và giữ được lâu mới phải bón lại.
Một số nghệ nhân nuôi trồng Phong lan còn dùng khô dầu (bã đậu phộng ép khô) và các xác bã động vật (tôm, cá, lông gà vịt) và mạnh dạn hơn còn dùng cả huyết khô. Các chất hữu cơ này đều ngâm trong nước cho nên men. Để ít ngày cho thật hoại và hết mùi thối. Lọc lấy phần nước, pha loãng mới đem dùng.
Mặc dù dùng loại phân nào, nhưng cách tưới phân vẫn đóng vai trò hết sức quan trọng, dùng nhiều quá một loại, hay tưới dài ngày quá cũng trây ảnh hưởng không tốt đến cây Phong lan.
Thời gian để tưới phân tốt nhất trong ngày hoặc vào buổi sáng sớm hay vào buổi chiều, không nên tưới vào buổi trưa. Tuy nhiên tùy theo mùa mưa mà có thể di chuyển lục tưới phân cho lợi. Phải theo dõi "dự báo thời tiết" để tránh tưới phân vào lúc có mưa (mặc dù vào buổi sáng hay chiều). Thời gian cách nhau để tưới phân cũng hết sức quan trọng, và phải tưới phân từ nồng độ thấp tăng dần lên nồng độ cao, trong quá trình tưới phân cần theo dõi xem xét hình dạng ngoài cây Phong lan mà điều chỉnh lượng phân tưới. Trung bình chỉ nên tưới mỗi tuần một lần (nó còn tùy thuộc vào mùa mưa hay mùa khô, tùy thuộc vào nơi ít nắng hay dâm mát). Xen kẽ với các ngày tưới phân, cần bổ sung các ngày tưới nước cho hợp lý.
Nước tưới Phong lan không cầu kỳ lắm như mọi người tưởng trước đây, miễn sao nước thật sạch, không mặn, không lợ là được. Tuy nhiên, tốt nhất nên dùng nước mưa vì độ ph - 6 - 7, rất phù hợp với rễ Phong lan còn non. Sau đó có thể dùng đến nước giếng (cần tránh nước cứng), nước ao hồ, sông, rạch (chú ý độ ph và độ sạch của nước). Cuối cùng phổ thông và tiện lợi nhất vẫn là dùng nước máy, chỉ cần chú ý đến độ clor trong nước (để nước trong chum vại ít ngày cho bay hết clor).
Cách tưới nước cũng cần chú ý. Tốt nhất dùng vòi với các lỗ nhỏ và tưới vọt lên cao, hạt nước nhỏ li ti theo gió rơi nhẹ xuống cả cây Phong lan. Một số người có tập quán nhúng ngập đến miệng chậu Phong lan vào chậu nước lớn. Làm như vậy nước thấm đều vào trong từng kẽ than, kẽ gạch và ướt hết cả sơ dừa. Tuy nhiên vì nhúng nhiều chậu Phong lan rồi mới thay nước, bệnh cây dễ lây lan từ cây này sang cây nọ Nguyên tắc tưới nước phải nhiều, đậm nhưng phải dần dần cho thấm đều, tránh dội nước ào vào cây Phong lan lượng nước nhiều nhưng ngấm ít và có khi làm thương tổn cây. Tưới nước cũng nên làm vào buổi sáng và sao cho cây được ẩm ướt suốt cho đến chiều mới phải tưới bổ sung.
Vào mùa khô, nếu trồng Phong lan nơi có độ nóng cao, chỉ nên làm ẩm ướt toàn bộ môi trường xung quanh, đừng tưới riêng cho cây Phong lan vì xưng quanh nóng sẽ phả hơi khô làm cây bị ngập. Lượng nước tưới tùy thuộc theo mùa. Đặc biệt trong mùa mưa phải đón giờ mưa để tránh khỏi mắc công vừa tưới nước, vừa làm cây bị ngập úng. Riêng đối với các loài trồng thành luống, phải tùy theo loại đất cô giữ nước hay không mà tưới sao cho vừa đủ. Cộng vào đó cần ủ gốc bằng rơm để giữ độ ẩm được lâu.
2. Phòng trừ bệnh cho phong lan
a. Phòng trừ bệnh do Virus
Có 2 loại bệnh do virus thường thấy trên Cymbidium là virus gây khảm lá và virus làm khằn cây.
Triệu chứng của virus làm khảm lá là ở những lá non mới ra có những sọc hay đốm màu xanh nhạt, màu vàng xen lẫn với những vệt màu xanh đậm trên phiến lá. Trong trường hợp bị nhiễm nặng cây không phát triển được, bộ rễ tăng trưởng chậm, trên hoa có những vết khảm nhạt màu hơn cánh hoa. Khi nở, hoa không thể xoay noãn hoàn toàn. Dạng bệnh này phổ biến nhất trên Cymbidium và thường gặp ở những vườn lan kém chăm sóc, nhất là ở những giống bị tách chiết nhiều lần do nhu cầu nhân giống cao, khi tách chiết, dụng cụ không được khử trùng nên đã làm lây lan nhanh chóng dạng bệnh này. Rầy rệp chích hút cũng là tác nhân gây lây lan bệnh.
Triệu chứng của virus làm khằn cây là làm cho cây không lớn được, lá cây trở nên xanh đậm và dày hơn bình thường, mặt lá gồ ghề, phiến lá cứng.
Hiện nay không có thuốc hóa học đặc trị bệnh virus. Khi có biểu hiện bệnh cần phải cách ly hoàn toàn với những cây đang mạnh khỏe. Nếu đã bị quá nặng, nên chôn đi hay đốt bỏ. Không nên giữ lại trong vườn vì bệnh sẽ lan nhanh chóng. Khi tiến hành tách chiết, dụng cụ nên khử trùng bằng cồn 700 hay đốt trên ngọn lửa sau mỗi lần làm xong 1 cây.
b. Phòng trừ bệnh do nấm
Trên Cymbidium, thường gặp nhất là bệnh đốm nâu trên lá do nấm gây ra. Ban đầu, trên lá xuất hiện những vệt vàng sau thành những chấm nhỏ đỏ nâu, có thể nhìn thấy ở cả 2 mặt lá, những chấm nâu lớn dần, nhiều thêm và cuối cùng làm cho lá rụng đi. Bệnh thường xuất hiện ở những lá già, ở những cây lan kém chăm sóc hay thiếu dinh dưỡng. Khi phát triển mạnh, bệnh cũng nhiễm vào những lá non. Ngoài ra, còn có bệnh thối rễ, thối đọt non, thối bẹ lá ở các cây non khoảng 3 tháng tuổi sau khi lấy ra khỏi ống nghiệm.
Lá Cymbidium bị bệnh nấm.
Để phòng trừ bệnh do nấm, trước hết cần bảo đảm cho cây đủ dinh dưỡng và tỷ lệ N:P:K phải cân đối. Dư N và thiếu K thường làm cho lá mềm, dễ nhiễm bệnh. ánh sáng phải đầy đủ để giữ độ cứng cho lá. Không tưới dư nước vì dễ làm cho rễ và đọt úng. Phun thuốc phòng ngừa thường xuyên 1 tháng 1 lần đến 2 lần. Nếu thấy bệnh xuất hiện cần phun nhiều hơn (1 tuần 2 đến 3 lần) cho đến khi triệu chứng bệnh giảm thì trở lại phun theo cách phòng ngừa. Các thuốc có thể sử dụng là:
. Aliette 2/1000; Rovral 2/1000: trừ bệnh thối đọt, thối cổ rễ ở cây con.
. Zineb 2/1000, Maneb 2/1000, Captan 2/1000; Benlate 1/1000; cerezan 1/1000...
Các thuốc có chứa gốc Cu (Đồng) chỉ nên sử dụng ở cây trưởng thành và không nên dùng nhiều lần trong một thời gian ngắn.
Cymbidium bị đen bẹ lá do nấm.
Lá bị gãy do dư N, thiếu K hay do thiếu ánh sáng.
c. Sâu bệnh hại phong lan
Bệnh do nấm
Các loài Phong lan còn non, và các loài đưa ở rừng về rất dễ bị nhiễm một số nấm.
- Bệnh đốm lá: Do nấm Colletrotrichum gloesporiodes hay Glomerella cingulata gây ra. Trên lá Phong lan xuất hiện một hay vài đốm màu vàng sau chuyển dần sang màu nâu. Nó lan tràn dần và các đốm cũng lớn dần, làm cho lá bị phá hoại, không đủ khả năng quang hợp. Cần phát hiện kịp thời và cắt ngay các đoạn lá xuất hiện các đốm vàng. Sau đó xịt thuốc Topsin, Kitazin, Thiram. Nếu không có loại thuốc trên, dùng Zineb cũng được (15 - 20 g thuốc hòa tan trong 10 lít nước) mỗi tuần phun một lần (nếu nặng có thể mỗi tuần 2 - 3 lần).
Nguyên nhân bệnh có thể do bị nước nhiều hay do phân tưới có mang mầm bệnh. Do đổ vào mùa mưa nên che thêm cho giàn và giữ tỷ lệ bón cân đối giữa phân hữu cơ và vô cơ.
- Bệnh thối đọt: Do nấm Phytophtora palmivora gây ra, làm cho các đọt Phong lan bị đen lại. Lúc đầu ở gốc các lá non có màu nâu đậm sau đó trở thành đen và làm lá rụng dễ dàng. Bệnh lan dần xuống thân và làm chết cả cây. Nguyên nhân cơ bản cũng do nước đọng lại lâu ở gốc bẹ lá, làm nõn cây bị phá hoại. Do đó vào mùa mưa cố tránh không để giọt mưa rơi và đọng lại ở các nõn lá. Cũng như các bệnh khác, cần phát hiện kịp thời và cắt bỏ đi phần bị bệnh và làm khô môi trường quá ẩm ướt xung quanh. Nếu bệnh có chiều hướng gia tăng, cần phun thuốc để trị. Hòa tan ít bột thuốc Thiram trong vài giọt nước, rồi trát ngay vào chỗ bị bệnh, để cứu chiếc lá đó khỏi bị rụng. Ngoài ra cần xịt thuốc (như các thuốc
kể trên) với nồng độ đậm hơn, cách ly cây bệnh khỏi các cây còn lành, và cắt bỏ các phần bị bệnh, nếu có thể (Thiram pha mỗi muỗng cà phê 1 lít nước).
- Bệnh thối rễ và gốc: Do nấm Pellicularia rolsii và Sclerotium rolsii gây ra. Cây Phong lan bị vàng lá, rễ bị mềm nhũn và nâu lại. Bệnh thường bắt đầu lan từ đỉnh rễ rồi chuyền vào gốc thân. Do cây Phong lan trồng trong các chậu, bộ rễ bị che lấp nên khó thấy bệnh ngay, nhưng để ý thấy chậm phát triển, kèm theo có vài lá úa vàng, cần phải nhấc cây khỏi đám gạch, than để kiểm tra bộ rễ ngay. Nếu phát hiện sớm ở ít cây thì lấy toàn bộ cây ra khỏi chậu, xịt thuốc trực tiếp vào bộ rễ (Thiram) và ngưng việc tưới ẩm cho bộ rễ. Nếu cần có thể ngâm ngập để cổ thân cây Phong lan trong dung dịch Sulphat đồng 1%, dung dịch Thiram, sau đó đem trồng vào chậu mới sạch sẽ. Chất liệu trồng cũng chọn than, gạch lớn để có thể tiếp tục xịt thuốc tới cả bộ rễ. Chế độ tưới nước phải được xem xét lại, tránh để ấm quá lâu trong bộ rễ (nhất là vào mùa mưa), các vật liệu trồng không nên nhuyễn quá, cây Phong lan luôn phải chịu độ ẩm cao, không thông thoáng. Bỏ bớt giàn che để có nhiều nắng hơn làm cho môi trường nuôi trồng khô ráo hơn.
Nhìn chung, các bệnh cây do Nấm rất dễ gây hại cho Phong lan, nên khi đã trồng nhiều phải có kế hoạch phun thuốc thường xuyên, mặc dù chưa phát hiện được bệnh. Đối với Phong lan con, sau khi trồng cũng phải phun thuốc (1 muỗng cà phê Thiram pha trong 1 hi nước), cây Phong lan chiết cành, chồi, các vết thương cần phải trét thuốc Santara.
Các Phong lan thu hái ở rừng về, trước khi trồng vào chậu cần nhúng cả vào trong chậu nước có pha Zineb loãng. Sau đó hàng tháng phải được xịt thuốc và cách li ngay các cây có
mầm bệnh.
Bệnh do vi khuẩn
Do loài vi khuẩn Erlninia carotolvora gây ra. Đầu tiên trên lá cây xuất hiên một vết mọng nước như bị bỏng, sau đó lan rộng ra rất nhanh làm cho cây như bị luộc chín, vàng ủng ra chết. Nếu phát hiện sớm thì cắt ngay đoạn lá bị rộp đó và tích cực phun thuốc oxyclorua đồng 1% , Bordeaux (1 kg sunphat đồng cộng với 1kg vôi sống hòa trong 100 lít nước trong các chậu xứ , đất, không để trong các thùng kim loại tưới liên tục trong cả tuần, nếu khỏi thì dừng ngay việc tưới thuốc đó.Nguyên nhân do tưới nước quá ẩm hay mùa mưa bị úng nước. Do đó cần che mưa rất kỹ cho cây, và tưới cây chỉ đủ độ ẩm và không để chậu Phong lan muôn bị ẩm lâu ngày.
Sâu hại phong lan
Rất nhiều loại côn trùng đến hại Phong lan từ mầm cây đến hoa quả.
-Rệp sáp, rất thích hút nhựa cây Phong lan kể cả cây nhỏ đến cây lớn, làm cho cây khô héo dần. Rệp sáp thuộc họ Cocoidea, có vỏ cứng màu nâu, lây lan do kiến đem đến. Nó phát triển rất mạnh ở các giàn lan bị che tối, do đó luôn phảicó ánh sáng trong giàn lan, thông thoáng và độ ẩm vừa phải. (Nếu có hiện tượng bị rệp sáp cần phơi các chậu Phong lan ra nắng) Rệp hút nhựa cây làm cây bị thương tổn lại là cơ sở cho các bệnh xâm nhập. Nếu trồng ít chậu thì có thể dùng bông tẩm dầu hôi để lau các mặt lá và dọc theo thân. (Nên làm vào buổi chiều để tránh sự cháy nắng lá).
-Rầy trắng, cũng hútnhựa cây làm cây khô héo dần. Nó được bọc bởi 1 lớp vảy màu trắng mịn và cũng thuộc họ Coccidea. Nếu sớm phát hiện có rầy trắng phá hoại, thì phun lên lá và thân dầu hôi với wofatox. Mỗi tuần phun 1 lần và làm cả mặt dưới lẫn mặt trên lá. Nếu cây bị nặng, thì gỡ cây khỏi chậu và ngâm trong dung dịch thuốc trên, rửa sạch các vết bẩn rồi trồng lại vào chậu khác. Tiếp tục làm vệ sinh quanh vườn và trong giàn (rẫy cỏ, phun thuốc sát trùng và chặt bỏ các cây có thể gây nguồn sâu bọ).
Sâu : ấu trùng của các loài Bướm ngày và đêm cũng phá hoại lá Phong lan khá mạnh (Phá hoại lá có Chliaria, phá hoại rễ có lọi Creatonotus, Diacrisia). CÓ thể phòng trừ bằng bắt sâu, hay thuốc pha loãng (Malathion, Gam ma BHC...).
- Gián: cắn phá rễ Phong lan rất nhanh, chúng thường ở ngay trong chậu Phong lan và lẫn trốn trong các khe than gạch, hoặc di chuyển từ nơi cống rãnh, chân cột giàn lên. Chúng rất thích ăn phần đầu rễ non làm cây bị tổn thương nặng, yếu đuối, tăng trưởng chậm và dễ nhiễm bệnh. Gián rất khó diệt vì chúng lẩn trốn kín, ban đêm mới ra cắn phá. Thường xuyên kiểm tra các chậu Phong lan bằng cách ngâm cả chậu (đến miệng) vào chậu nước lớn, gián sẽ phải bò ra (kể cả gián con), tốt nhất là dùng mồi có tẩm thuốc để nhử gián, sẽ diệt được cả gián trong chậu lẫn ở xung quanh. Một mẫu nhỏ bánh mì có tẩm thuốc (Zso-proposyl-phenil-N-Methylcarbonate) sẽ diệt được chúng về đêm. Sau đó phải làm vệ sinh toàn bộ nơi trồng Phong lan không để các chỗ cho chúng ẩn nấp. Rầy vàng có nhiều loài, trong đó chủ yếu thuộc loài Lem pectorallis phá hoại Phong lan nhiều nhất. Chúng thường làm hại nụ và hoa Phong lan, bằng cách đẻ trứng trên búp hoa và cắn phá mạnh cả cụm hoa (ấu trùng lớn màu đỏ vàng và nước tiết ra màu đỏ cam). Do đó mỗi khi cây bắt đầu cho nụ hoa phải kịp thời phát hiện và phun thuốc ngay. Rầy hay gieo hoan vào buổi tối do đó nên phun thuốc ngay vào buổi chiều, nó sẽ không hoạt động được. - Rệp đỏ rất nhỏ bé, thường cắn mặt dưới lá làm lá có lấm tấm đen rồi rụng (như lá bị tàn nhang). Khi phát hiện có các đám nhỏ di động ở mặt dưới lá già phải có biện pháp xịt thuốc ngay. Dùng Malathion, Dicrotophos, hay imethoate phun cách 10 ngày 1 lần và cả 2 mặt lá.
Ngoài ra còn có thể thấy ở các vườn Phong lan các loại Bọ Trĩ (côn trùng châm hút nhỏ có cánh), Rệp vảy (loại có vỏ cứng hay vỏ mỏng) Rệp bột (cơ thể mềm nhũn)... tất cả đều có thể bị tiêu diệt bằng cách phun thuốc :
Tóm lại, về thuốc để sát khuẩn hay trị sâu bọ thì tùy theo từng loại Phong lan và tùy theo nguồn cung cấp hay tập quán có thể dùng các loại sau :
* Thuốc sát khuẩn có các loại thông thường:
Tên thuốc Tên thương mại
1- Bennomyl ------------------>Benlate
2 - Loại gốc đồng ------------->opper fungicide, Peromox, Oxychlorua Cu.
3 - Ferboum ---------------------> Carbonat. Ferboum. Fermate. Trifungol.
4 - Mancozeb--------------------> Mancozeb. Dithane 45
5 - Maneb------------------------> Tritogo M, Feodrex fungicidè, Dithane M 22. Manzate D. Maneb, Polyram M.
6 - Santar A-----------------------> Santa A.
7 - Thiram -------------------------->Thiram. Tricomor. Tersan. Polyram ultre.
8 - Zineb----------------------------> Zineb. Dithane Z.78.
* Thuốc sát trùng, có các loại thông thường sau :
Tên thuốc ---------------------------- Tên thương mại
1 - Carbaryl --------------------------> Sovin. Carbaryl 85.
2 - Dicrotophos -----------------------> Bidrin
3 - Dimethoate ------------------------> Rogor, Roxion, Tri-roxion. Dimetox, Dimet 40
4 - Gam ma BHC-----------------------> Agrocìde. Dolscida. Lindane
5 – Malathion----------------------------> Malathion. Bnothion
6 - Dầu hôi -------------------------------> White oil, Anbolineum.
Ngoài ra, vườn Phong lan còn có thể bị nhiều loại động vật khác phá hoại như ốc sên, ong, châu chấu, chuột, chim..., do đó phái làm vệ sinh thường xuyên cả vườn, lẫn khu vực lân cận, bằng cách xếp dọn gọn gàng các thứ vật liệu gây trồng, loại bỏ các vật không cân thiết vâ phun thuốc Methyl parathion. Mặt khác khi phát hinệl ra có sự phá hoại, phải kịp thời ngăn chặn ngay, không để bị tổn thương nàng, cây Phong lan rất khó phục hồi...
Để hiểu thêm về kỹ thuật chăm sóc cây cảnh, bạn nên liên hệ với Hội cây cảnh hoặc Hội làm vườn tại địa phương.